Lúc 9g sáng thứ Sáu 13 tháng 12, tại nhà nguyện Mẹ Đấng Cứu Chuộc trong điện Tông Tòa của Vatican, Đức Thánh Cha và giáo triều Rôma đã tham dự buổi tĩnh tâm Tuần thứ Hai Mùa Vọng. Vị giảng thuyết là cha Raniero Cantalamessa, thần học gia, và là giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng.
Chủ đề của các bài thuyết giảng trong cuộc tĩnh tâm Mùa Vọng là một câu từ Phúc Âm theo Thánh Matthêu “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người.”
Trong phần thứ nhất, cha Raniero Cantalamessa giảng thuyết về bài ca Magnificat, khi Đức Mẹ đi thăm bà Êlisabét. Phần thứ hai bàn về bài ca Magnificat trong ý hướng truyền giáo và hoán cải.
Bản tiếng Anh có thể xem tại đây: “My Soul Proclaims the Greatness of the Lord” – “Linh hồn tôi ngợi khen sự cao cả của Thiên Chúa”. Dưới đây là bản dịch toàn văn phần II sang Việt Ngữ.
Bài ca Magnificat, trường truyền giáo
Nhận xét về biến cố Truyền tin, Thánh Irênê (Irenaeus) nói rằng “Đức Maria, lòng đầy hân hoan, đã thốt lên một cách tiên tri nhân danh Hội Thánh: Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.” [3] Đức Maria giống như nghệ sĩ độc tấu bắt đầu một giai điệu mà dàn hợp xướng phải hát theo. Điều này giải thích diễn đạt “Đức Maria, mô hình của Giáo Hội” (typus Ecclesiae), được các Giáo Phụ sử dụng và được Công đồng Vatican II (LG 63) công nhận. Nói rằng “Đức Maria là mô hình của Giáo Hội”, có nghĩa là Mẹ là sự nhân cách hóa của Giáo Hội, là đại diện dễ nhận biết của một thực tại tâm linh; điều đó có nghĩa là Mẹ là mô hình gương mẫu của Giáo Hội theo nghĩa là ý tưởng về Giáo Hội được thực hiện hoàn hảo trước hết nơi Mẹ, đồng thời Mẹ là thành viên chính, là gốc rễ và trái tim của Giáo Hội.
Nhưng “Giáo Hội” có ý nghĩa gì ở đây và ở chỗ mà Thánh Irênê nói Đức Maria hát bài Magnificat nhân danh Hội Thánh? Không phải nhân danh Giáo Hội về mặt danh nghĩa, nhưng là nhân danh một Giáo Hội thực sự, nghĩa là không phải một Giáo Hội trừu tượng, nhưng là một Giáo Hội cụ thể, bao gồm những người và những linh hồn tạo nên Giáo Hội. Magnificat không chỉ được đọc mà còn được sống. Mỗi người trong chúng ta nên biến nó thành của riêng mình; thành bài thánh ca của chúng ta. Khi chúng ta nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, thì chữ “tôi” ấy phải là một tham chiếu trực tiếp. Thánh Ambrôsiô đã viết: “Xin cho linh hồn Đức Maria ở trong anh chị em để anh chị em hân hoan trong Chúa.... Đúng là về phương diện thể lý Mẹ của Chúa Kitô chỉ có một, nhưng tất cả các linh hồn đều có Chúa Kitô trong đức tin bởi vì mỗi tín hữu đều đón nhận vào chính mình Lời của Thiên Chúa.” [4]
Dưới ánh sáng của những nguyên tắc này, bây giờ chúng ta hãy cố gắng áp dụng bài ca của Đức Maria cho chính chúng ta, cho Giáo Hội và các linh hồn, để học biết những gì chúng ta phải làm để có thể “nên giống như” Đức Maria không chỉ trong lời nói mà còn trong hành động.
Khi Đức Maria loan báo việc hạ bệ những người quyền thế và kiêu hãnh, bài Magnificat nhắc nhở Giáo Hội về thông điệp thiết yếu mà Giáo Hội phải công bố với thế giới. Bài ca ấy dạy Giáo Hội phải có tính “tiên tri”. Giáo Hội sống và thực hành bài thánh ca của Đức Trinh Nữ khi Giáo Hội lặp lại cùng với Đức Maria: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, người giàu có, lại đuổi về tay trắng!” Giáo Hội lặp lại điều này với đức tin, tạo ra sự khác biệt giữa điều này và tất cả các lời loan báo khác, Giáo Hội cũng có quyền kêu gọi sự chú ý đến công lý, hòa bình và trật tự xã hội vì Giáo Hội là thông dịch viên về luật tự nhiên được công nhận và là người bảo vệ các lệnh truyền của Chúa Kitô về tình huynh đệ.
Hai tầm nhìn [về Thiên Chúa và về thế giới] tuy khác biệt, nhưng chúng không tách biệt và có ảnh hưởng tương tác với nhau. Việc tuyên xưng đức tin về những gì Thiên Chúa đã làm trong lịch sử cứu độ (tầm nhìn về Thiên Chúa trong Magnificat) trở thành dấu chỉ tốt nhất về những gì con người đến lượt mình phải làm trong lịch sử cá nhân của mình, và, đúng hơn là những gì bản thân Giáo Hội, về phương diện bác ái, phải làm đối với những người giàu có, liên quan đến ơn cứu rỗi của họ. Magnificat không phải là lời “kích động việc hạ bệ những kẻ quyền thế khỏi ngai vàng của họ nhằm nâng lên những người khiêm nhường”, nhưng đó là lời cảnh báo lành mạnh dành cho người giàu có và quyền thế về nguy cơ to lớn mà họ gặp phải như trong câu chuyện ngụ ngôn về ông phú hộ, được Chúa Giêsu đưa ra sau này.
Do đó, Magnificat không phải là cách duy nhất để đối mặt với vấn đề mà ngày nay có thể cảm nhận rõ rệt hơn bao giờ là giàu có và nghèo đói, là đói khát và thừa mứa. Có những cách hợp pháp khác đến với chúng ta từ lịch sử, chứ không phải từ đức tin, mà các Kitô hữu hỗ trợ và Giáo Hội phân định. Nhưng cách thế được nêu trong Kinh thánh phải được Giáo Hội công bố luôn luôn cho tất cả mọi người như là một nhiệm vụ đặc thù của mình và qua đó Giáo Hội hỗ trợ những nỗ lực chung của tất cả những người thiện chí. Điều này luôn luôn có giá trị phổ quát và có liên quan. Nếu tình cờ có một lúc, một nơi nào đó không còn bất công hay bất bình đẳng xã hội giữa con người với nhau, mọi người đều giàu có và hài lòng, thì Giáo Hội vẫn phải tuyên bố, như Đức Maria đã làm, rằng người giàu có, Chúa đuổi về tay trắng. Trên thực tế, Giáo Hội còn phải công bố điều đó với một nhiệt tình thậm chí còn lớn hơn nữa. Magnificat có liên quan ở các nước giàu có cũng như ở các nước thuộc Thế giới thứ ba.
Có những kế hoạch và những khía cạnh của cuộc sống chỉ có thể nắm bắt được với sự trợ giúp của một ánh sáng đặc biệt, mắt trần thôi thì không đủ; chúng ta cần tia hồng ngoại hoặc tia cực tím. Hình ảnh mà ánh sáng đặc biệt này mang lại rất khác biệt và đáng ngạc nhiên đối với những người đã quen nhìn thấy những hiện tượng tương tự trong ánh sáng tự nhiên. Nhờ lời của Thiên Chúa, Giáo Hội có một hình ảnh khác về tình hình thế giới, là hình ảnh duy nhất lâu dài, bởi vì nó có được nhờ ánh sáng của Thiên Chúa và đó là hình ảnh mà chính Thiên Chúa có. Giáo Hội không thể cất giấu hình ảnh này. Nhưng Giáo Hội phải truyền bá nó một cách không mệt mỏi, làm cho nó được mọi người biết đến vì phần số đời đời của họ đang bị đe dọa. Đó là hình ảnh sẽ còn lại khi “khuôn mẫu của thế giới” này qua đi. Đôi khi Giáo Hội phải làm sáng tỏ điều này qua những từ đơn giản, trực tiếp và tiên tri, giống như những lời mà Đức Maria đã sử dụng; qua đó, chúng ta bày tỏ những điều mà chúng ta tin tưởng một cách mật thiết và thanh thản. Điều này phải được thực hiện ngay cả với giá phải trả là thế gian, theo ý kiến và quan điểm phổ biến của thời đại, xem chúng ta là những kẻ dại khờ và bị tách biệt khỏi thế giới này.
Sách Khải Huyền cho chúng ta một ví dụ về ngôn ngữ tiên tri trực tiếp và táo bạo này, trong đó sự thật thánh thiêng trái ngược lại với ý kiến của con người: “Ngươi nói: ‘Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi’; nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng.” (Kh 3:17).
Hãy nghĩ về câu chuyện nổi tiếng của Andersen, trong đó một số kẻ lừa đảo đã khiến một vị vua tin rằng có một chất liệu đẹp đẽ sẽ khiến những người mặc nó trở nên vô hình trước những kẻ ngu si và đần độn, và chỉ người khôn ngoan mới có thể nhìn thấy được. Trước hết, bản thân nhà vua không nhìn thấy điều đó nhưng ông ta sợ nói như vậy thì sẽ bị coi là một trong những kẻ ngu si đần độn và tất cả các văn võ bá quan cũng như thần dân của ông ta cũng cư xử theo cùng một cách như thế. Vì vậy, gần như hoàn toàn khỏa thân, nhà vua diễu hành qua đường phố và mọi người, để không tự phản bội chính mình, giả vờ chiêm ngưỡng chiếc áo choàng đẹp đẽ của ông ta cho đến khi vang lên tiếng trẻ con trong đám đông: “Nhưng nhà vua không mặc gì hết kia kìa!”, điều đó đã đặt một dấu chấm hết cho trò này, và mọi người cuối cùng cũng có can đảm thừa nhận rằng những chiếc áo choàng nổi tiếng không hề tồn tại.
Giáo Hội phải giống như giọng nói trẻ con đó. Đối với một thế giới mê đắm sự thịnh vượng của chính mình và với những ai cho thấy họ không tin vào mình, Giáo Hội lặp đi lặp lại những lời của sách Khải Huyền: “Ngươi không biết rằng ngươi là kẻ trần truồng!” Điều này cho thấy Đức Maria đã thực sự “thốt lên một cách tiên tri nhân danh Hội Thánh” trong bài ca Magnificat: bắt đầu từ Thiên Chúa, Mẹ là người đầu tiên vạch trần sự cơ bần cùng cực của những kẻ giàu có trong thế giới này. Chính bài ca Magnificat biện minh cho danh hiệu “Ánh sao truyền giáo”, mà Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục xưng tụng Đức Maria trong Tông huấn “Evangelii nuntiandi” – nghĩa là “Loan Báo Tin Mừng” – của ngài.
Bài ca Magnificat, trường học hoán cải
Tuy nhiên, giới hạn phần nói về kẻ kiêu hãnh và người khiêm nhường, kẻ giàu có và người nghèo đói của bài ca Magnificat trong phạm vi những gì Giáo Hội và các tín hữu phải thuyết giảng cho thế giới sẽ gây ra một sự hiểu nhầm hoàn toàn bài ca này. Chúng ta không chỉ đối diện với một cái gì đó phải được rao giảng nhưng trên hết, phải được thực hành. Đức Maria có thể công bố mối phúc cho người khiêm tốn và nghèo khổ vì bản thân Mẹ là người khiêm tốn và thanh bần. Sự đảo ngược được Mẹ đề cập đến phải diễn ra đặc biệt là trong trái tim của bất cứ ai nói về bài ca Magnificat và cầu nguyện qua bài ca này. Đức Maria nói: Chúa dẹp tan phường kiêu căng “trong lòng trí tâm hồn họ”.
Thật bất ngờ, chủ đề chuyển từ ngoài vào trong, từ các cuộc thảo luận thần học trong đó mọi người đều đúng sang những suy nghĩ của con tim mà mọi người đều sai. Những ai sống cho bản thân mình, coi mình là thần minh của chính mình, chứ không phải Chúa, thì những người ấy đang tự xây dựng ngai vàng cho mình ngồi lên ra lệnh cho người khác. Giờ đây, Đức Maria nói, Chúa đã hạ bệ những người ấy xuống khỏi ngai vàng của họ; Ngài đã vạch trần sự thiếu vắng chân lý và sự bất công của họ. Có một thế giới nội tâm được tạo thành từ những suy nghĩ, ý chí, mong muốn và đam mê, mà theo Thánh Giacôbê, luôn gây ra các cuộc chiến và xung đột, bất công và lạm dụng trong anh em (xem Gb 4: 1) và khi không ai cố gắng thay đổi tình trạng này từ gốc, sẽ không có gì thực sự thay đổi trên thế giới; và nếu có cái gì đó thay đổi đi chăng nữa thì chỉ sau một thời gian ngắn nó lại tái tạo một tình trạng tương tự như trước đây.
Như thế, chúng ta cảm động đến mức nào trước bài ca của Đức Maria, bài ca ấy xem xét kỹ lưỡng chúng ta như thế nào và “chặt đứt các cội rễ” triệt để biết bao. Tôi sẽ ngu ngốc và bất nhất đến mức nào nếu hàng ngày, trong các giờ Kinh Chiều, tôi lặp lại cùng với Đức Maria rằng “Chúa hạ bệ những ai quyền thế” trong khi đó tôi lại tiếp tục khao khát quyền lực, một vị trí cao hơn, thăng quan tiến chức, một sự nghiệp tốt hơn và đánh mất đi sự bình an nội tâm nếu tôi không thành công; và mỗi ngày tôi tuyên bố cùng với Đức Maria rằng người giàu có, Chúa đuổi về tay trắng, nhưng đồng thời tôi lại khao khát không mệt mỏi sự giàu có và của cải cùng những thứ càng lúc càng thượng hạng hơn; và rồi tôi cũng thích trắng tay trước mặt Chúa hơn là trắng tay trước mắt thế gian. Tôi sẽ ngu ngốc đến mức nào nếu tôi tiếp tục nói với Đức Maria rằng Chúa “nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”, Ngài gần gũi với họ, xa lánh phường kiêu căng và những kẻ giàu có, nhưng tôi lại làm điều ngược lại. Trong bài bình luận về bài ca Magnificat, Martin Luther viết,
Mỗi ngày chúng ta thấy rằng mọi người đều nhắm quá cao, vào các vị trí danh dự, quyền thế, sự giàu có, quyền thống trị, một cuộc sống thoải mái hơn, và vào bất cứ điều gì mang lại cho họ tầm quan trọng. Và tất cả chúng ta đều thích làm bạn với những người như vậy; chúng ta chạy theo họ, sẵn lòng phục vụ họ, chia sẻ sự vĩ đại của họ. Không ai muốn nhìn xuống những nơi thấp hơn, là những nơi đang ngự trị nghèo đói, ô nhục, túng quẫn, phiền não và thống khổ. Thay vào đó, chúng ta đảo mắt khỏi những điều như vậy. Chúng ta trốn tránh và tránh xa những người đang gặp rắc rối và để mặc họ ra sao thì ra. Không ai nghĩ đến việc giúp đỡ hoặc chìa ra một bàn tay cho họ hoặc làm bất cứ điều gì để giúp họ trở thành một cái gì đó; họ phải ở lại bậc thang thấp hèn và bị coi thường [5].
Đức Maria nói rằng Chúa làm điều ngược lại; Ngài xa lành phường kiêu căng và nâng dậy những ai khiêm nhường và không quan trọng; Ngài sẵn sàng gần gũi hơn với những người nghèo khổ và đói khát đang quấy rầy Ngài với những lời cầu xin và các thỉnh cầu hơn là với những người giàu có và hài lòng, những người không cần đến Ngài và không xin sự gì nơi Ngài. Vì thế, với sự dịu dàng từ mẫu, Đức Maria khuyên chúng ta bắt chước Chúa và biến lựa chọn của Ngài thành lựa chọn của chính chúng ta. Mẹ dạy chúng ta đường lối Chúa. Magnificat thực sự là một trường học tuyệt vời của sự khôn ngoan theo Kinh thánh, và là một trường hoán cải liên tục.
Thông qua sự hiệp thông của các thánh trong Nhiệm Thể, toàn bộ di sản to lớn này giờ đây gắn bó với bài ca Magnificat. Đây là cách bài ca này phải được hát, đó là đồng ca với tất cả các tín hữu trong Giáo Hội. Đây là cách làm cho Chúa vui thích. Để trở thành một phần của dàn đồng ca đã phát triển trong suốt nhiều thế kỷ, tất cả những gì chúng ta phải làm là dâng lên Thiên Chúa tình cảm và ý hướng muốn chuyển tải của Đức Maria, là người đầu tiên hát lên “nhân danh Giáo Hội”, nhân danh các học giả đã nhận xét về bài ca này, nhân danh những nhạc sĩ đã phổ nhạc ca vịnh ấy trong đức tin, nhân danh những người mộ đạo và nhân danh những người khiêm nhượng trong lòng đã sống bài ca ấy. Nhờ có bài thánh ca tuyệt vời này, Đức Maria tiếp tục tán dương Chúa cho tất cả các thế hệ. Tiếng hát của Mẹ, như tiếng hát của một người dẫn hát, hỗ trợ và mang theo cùng tiếng hát của Mẹ tiếng hát của Giáo Hội.
Vịnh gia mời tất cả chúng ta cùng tham gia: “Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA,” (Tv 34: 4). Đức Maria lặp lại những lời tương tự với chúng ta, là con cái của Mẹ. Nếu tôi được phép diễn giải tâm trí của Đức Thánh Cha trong ngày Kim Khánh linh mục này của ngài, thì ngài cũng nói cùng chúng ta: “Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA!” Và chúng ta hứa sẽ làm điều đó.
[1] x. Thánh Augustinô, Tự Thú, VII, 16; XI, 9.
[2] Thánh Bonaventure, Lignum vitae – Rừng sự sống, I, 3.
[3] Thánh Irênê, Adv. Haer., III, 10, 2 (SCh 211, trang 118).
[4] x. Thánh Ambrôsiô, Luận về các trinh nữ, I, 31 (PL 16, 208).
[5] Weimar ed., 7, tr. 547.
Đặng Minh An
Vietcatholic News
Tags:
Đức Maria