Tổng kết hội thảo - về thân thế và sự nghiệp linh mục Léopold-michel Cadière

Trong bầu khí hân hoan của Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam, kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, 350 năm thành lập hai Giáo phận đầu tiên ở Việt Nam và nhân lễ giỗ lần thứ 55 ngày mất của Cha Cadière, Ủy Ban Văn hóa Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám Mục Huế, với sự cộng tác của Câu Lạc Bộ Phaolô Nguyễn văn Bình, đã tổ chức cuộc Hội thảo “THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP LINH MỤC LÉOPOLD – MICHEL CADIÈRE, 1869-1955”.

Trong ba ngày qua, tại hội trường Trung tâm Mục vụ Huế này, cũng như tại Đại Chủng viện Huế, tất cả chúng ta, khoảng 600 người, đến từ nhiều miền đất nước, có những người đến từ xa (Pháp, Mỹ, Đức, Canaada…), với niềm tin tín ngưỡng khác nhau và cũng có thể khác nhau về chính kiến, nhưng chúng ta tề tựu nơi đây trên một đồng thuận và cùng hướng về một con người mà chúng ta quý mến với lòng tri ân. Đó là Cố Cả, linh mục Léopold Cadière.

Chúng ta đã được nghe 13 tham luận, mấy chục ý kiến trao đổi. Tất cả thời gian này và lượng thông tin phong phú này đều được tập chú vào một nhân vật vốn đã dành cả cuộc đời hoạt động của mình cho vùng đất hữu tình này, cho người dân chất phác của Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, và nói rộng ra là với nền văn hóa và lịch sử của dân tộc Việt, với tất cả tài năng trí tuệ và với con tim yêu thương. Đó là linh mục Léopold Cadière.

Quả vậy, qua các tham luận và ý kiến, chúng ta đã nhận diện một cách rõ nét hơn chân dung một Léopold Cadière đa năng, đa tài trên nhiều lãnh vực, nhưng nổi bật nhất là như một thừa sai nhiệt tình, gương mẫu và một nhà nghiên cứu khoa học uyên bác, nghiêm túc.

1 – Léopold Cadière, một Linh mục Thừa sai, một con người của đức tin.

Ngoài phát biểu khai mạc của Đức Cha Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và phát biểu đề dẫn của Đức Cha Vũ Duy Thống, còn có các tham luận trực tiếp đề cập nhiều đến Léopold Cadière là một linh mục thừa sai, với nhiệm vụ hàng đầu là truyền giáo. Đó là các bài tham luận của Cha Gérard Moussay (không đọc ở diễn đàn), của Cha Etcharren, cả hai đều thuộc Hội Thừa sai Paris, và của Đức Cha Nguyễn Thái Hợp.

Qua năm bài tham luận này, chúng ta thấy Cadière đã thực thi sứ vụ truyền giáo với tất cả lòng nhiệt thành của một tông đồ của Chúa. Cha J.B. Etcharren nhấn mạnh rằng Cha Cadière trước hết, là một con người của đức tin và chiều kích tâm linh là nền tảng cho mọi chọn lựa và hoạt động của ngài, ngài đặt ánh sáng đức tin lên trên tất cả. Và trong thực tế, Cha Cadière là một thừa sai nhiệt tình và đức hạnh, và chính ngài đã truyền lại những kinh nghiệm cho các thế hệ thừa sai trẻ, qua các nghiên cứu của ngài. Cha Etcharren đã dẫn chứng nền tảng đức tin của Cha Cadière bằng cách đọc lại những lời cuối cùng của ngài, bài “Nâng tâm hồn lên!”, như một tuyên xưng đức tin và như những lời vinh tụng ca dâng lên Thiên Chúa.

Khi đến miền truyền giáo được chỉ định là giáo phận Bắc Đàng Trong, nay là giáo phận Huế, Cha Cadière chẳng những đã chăm chỉ học tiếng Việt, mà còn miệt mài tìm hiểu về đối tượng mà mình có trách nhiệm phục vụ. Ngài từng là giáo sư Tiểu chủng viện (An Ninh) và Đại chủng viện (Huế), từng là cha xứ (Vĩnh Lộc, Cù Lạc, Di Loan, Tam Tòa) và là Hạt trưởng (Di Loan). Ngài từng xây dựng trường học, nhà thương, xưởng thợ (giúp phục hồi nghề lụa Di Loan) và cả một ngôi nhà thờ “đẹp đến nỗi người ta gọi là Vương cung thánh đường”. Ngài từng làm những công việc thường nhật của một thừa sai là “dạy dỗ, kiểm tra, lui tới những giáo đoàn mới để vực dậy sự dũng cảm của người yếu đuối và bảo vệ họ chống lại những điều phiền nhiễu, làm cho ra lẽ những vụ kiện cáo và những bách hại mà họ thường là mục tiêu; quan hệ xã hội với các viên chức để họ tôn trọng các quyền lợi chính đáng; viết thư khuyên răn, cổ vũ việc siêng năng kinh hạt cầu nguyện và ra tay giúp đỡ cả những người khốn khổ nữa” (Giám mục Nguyễn Thái Hợp). Nhà sử học Đào Hùng cũng nhận định chính xác rằng “Cuộc đời Léopold Cadiere là cuộc đời của một linh mục cống hiến cho giáo dân, vì đó luôn là mục đích chính của ông”.

Nhưng điều đặc biệt nơi linh mục thừa sai Léopold Cadière không nằm nơi những hoạt động này vì nhiều thừa sai có thể làm được như vậy. Điều đặc biệt nơi ngài chính là phương cách truyền giáo và trái tim nhân ái. Đó chính là phương cách hòa đồng, “ao ước được trở thành đồng hương của những người dân hiền lành chất phác ở Bình Trị Thiên”, “trở thành người Việt với người Việt”. Hòa đồng đến độ ngài tự xưng mình là “một cụ già được Việt hóa” (Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Như Thể nhắc lại tại lễ tưởng niệm) hay theo Nhà Nghiên cứu Đỗ Trinh Huệ là “một ông già hóa Việt” (vieil annamitisant).

Điều đặc biệt thứ hai nơi thừa sai Cadière là trái tim nhân ái, là tấm lòng yêu thương và kính trọng người Việt mà Cha Cadière nhận ra nhiều đức tính cao đẹp về tâm linh và luân lý. Nhiều tham luận đã đưa nhiều chứng cứ và trích dẫn về lòng yêu mến và quý trọng mà Cha Cadière dành cho người Việt và nền văn hóa Việt. Nhiều diễn giả đã lặp lại, tại Hội trường này cũng như tại nghi lễ tưởng niệm ở Đại chủng viện, những lời này của Cha Léopold Cadière : “ Tôi đã nghiên cứu các tín ngưỡng, những thực hành tôn giáo, những thói quen,những phong tục của họ… Tôi đã nghiên cứu lịch sử của họ… Khi đã nghiên cứu và đã hiểu người Việt Nam, tôi đã yêu mến họ. Tôi đã yêu mến họ vì tài thông minh và trí sắc sảo của họ… Tôi đã yêu mến họ vì những nhân đức luân lý của họ… Tôi đã yêu mến họ vì tính cách của họ… Sau hết, tôi đã yêu mến họ vì những đau khổ của họ”.

Tuy vậy, theo cái nhìn lịch sử của Giám mục Nguyễn Thái Hợp, phương cách truyền giáo của Cadière cũng chỉ là tiếp nối tinh thần của Thánh Phaolô Tông đồ “Do thái với người Do Thái”, là tiếp nối phương cách của các nhà truyền giáo xa xưa và cụ thể, là thi hành Huấn thị năm 1659 của Bộ Truyền giáo. Nhưng điều đặc biệt nơi Cadière là chính ngài đã làm sống lại tinh thần và truyền thống này sau bao nhiêu năm bị hầu hết các thừa sai lãng quên hay làm ngược lại, mà tiêu biểu là vụ “tranh cãi nghi lễ Trung Hoa”. Chính Cadière là người kết hợp nhuần nhuyễn giữa loan báo Tin mừng và hội nhập văn hóa, truyền giáo bằng văn hóa và qua văn hóa. Nhưng tiếc rằng, theo nhà sử học Đào Hùng, chỉ có một ít thừa sai đi cùng con đường của Cadiere, đó là Lm Francois –Marie Savina (1876-1941) ở Tây Bắc, là tác giả của một số công trình, nhất là một loạt từ điển song ngữ (Mèo – Pháp, Pháp – Mán, Tày – Việt-Pháp …) và Linh mục Jacques Dournes ở Tây Nguyên với 250 công trình khảo cứu, nhất là về dân tộc học Đông Nam Châu Á.

Riêng đối với Huế, Cha Cadière đã dành những tình cảm đặc biệt, như được Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Châu Phan cảm nhận: “Cadière đã đến Huế, đã ở với Huế, đã nghiên cứu về Huế, đã hiểu biết sâu sắc về Huế, đã yêu mến Huế, đã bảo vệ Huế, đã giới thiệu Huế ra thế giới và cũng đã mong muốn được ở Huế cho đến ngày cuối cùng và được chết trên đất Huế”.

Có thể nói rằng cả cuộc đời và toàn bộ công trình của Cadière nói lên tình yêu mến và quý trọng đối với con người và quê hương Viẹt Nam, như chính thổ lộ của Ngài: “Cả đời tôi, tôi đã dâng cho Xứ sở này. Cho tôi được ở lại và chết ở đây”. Một ý nguyện mà tất cả chúng ta ai cũng cảm phục và quý mến.

Tâm tình cảm phục và quý mến này đã được thể hiện qua việc phần đông cử tọa này đã đến niệm hương trước phần mộ của Ngài và qua nghi thức tưởng niệm Ngài, cũng như qua việc đặt tượng Ngài và văn bia tại Đại Chủng Viện Huế vào sáng ngày 8-9-2010.

2 – Léopold Cadière, một nhà nghiên cứu khoa học.

Đây là mảng nội dung được nhiều nhà nghiên cứu giới thiệu.

Qua hai bài tham luận của Tiến sĩ sử học và chuyên gia lưu trữ Gérard Moussay, linh mục Hội Thừa sai Paris, và của Nhà Nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu (tiếc rằng cả hai vị, vì lý do sức khỏe, không thể hiện diện nên cả hai bài này đều không được thuyết trình), chúng ta có thể nói rằng Cha Cadière là một nhà bác học đa năng. Việc ngài là thành viên của nhiều tổ chức nghiên cứu ở Việt Nam và quốc tế là một chứng minh. Trên 250 công trình lớn nhỏ của ngài đề cập đến rất nhiều lãnh vực, từ lịch sử đến văn hóa (nhất là văn hóa dân gian), từ ngôn ngữ học đến nhân chủng học, từ mỹ thuật đến tôn giáo (nhất là tín ngưỡng dân gian), từ kinh tế đến môi trường, kể cả khảo cổ học, động vật học và thực vật học…Tất cả đều liên quan xa gần đến người Việt, đến lịch sử Việt và văn hóa Việt nên có thể gọi Cadière là nhà “Việt Nam học” tiên phong, và dĩ nhiên là một nhà “Huế học” xuất sắc.

Tất cả các công trình nghiên cứu của Cha Cadière, chủ yếu bằng tiếng Pháp, được phổ biến trên 15 loại tạp chí khác nhau, chủ yếu ở Pháp (Paris, Lyon) và Việt Nam (Hà Nội, Huế, Sàigòn), nhất là Tạp chí BAVH mà ngài là chủ biên từ đầu cho đến cuối (1914-1944), nhưng cũng có cả ở Áo và Singapore. Linh mục Gérard Moussay đã đưa ra một bảng liệt kê chi tiết, nên chúng tôi không nêu lại nơi đây, nhưng muốn nhấn mạnh rằng chính Cha Cadière đã quảng bá văn hóa Việt, lịch sử Việt Nam một cách rộng rãi ra thế giới.

Điều đặc biệt, Cadière không chỉ hoạt động một mình, mà còn quy tụ nhiều trí thức cùng tham gia, cụ thể là thành lập Hội Đô Thành Hiếu Cổ, lập một Viện Bảo tàng để bảo tồn những di vật cổ, một Thư viện để mọi người có thể tham khảo, học hỏi và nhất là lập một tạp chí để quảng bá các công trình nghiên cứu, các thành tựu, đó là Tạp chí BAVH, mà nói như nhà Nghiên cứu Hồ Tấn Phan, nhắc đến BAVH thì ai nghiên cứu về Cadière, về Việt Nam học, về Huế học đều biết.

Từ khối lượng công trình đồ sộ này, chúng ta không có đủ thời gian đề cập đến hết tất cả nội dung. Do vậy, các diễn giả tự chọn đề tài ưa thích của mình mà theo cảm nhận chủ quan, cũng là những đề tài mang tính thời sự hoặc được cử tọa quan tâm tìm hiểu.

Ngoài những tham luận nêu những vấn đề chung, các đề tài được trình bày thuộc các lãnh vực như sau:

1- Triết học: Giáo sư Trần Văn Toàn với bài “Minh triết dân gian Việt Nam theo L.Cadière”.

2- Tôn giáo, văn hóa : Nhà nghiên cứu Đỗ Trinh Huệ, “Tâm thức tiếp cận của L. Cadière với văn hóa, tín ngưỡng và tôn giáo người Việt”.

3- Huế học: Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Châu Phan, “Huế dưới con mắt L.Cadiere, L. Cadiere dưới con mắt một người Huế” và Nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan, “L. Cadière với cổ vật Huế”.

4- Gia đình: Nhà văn Nguyên Ngọc, ”Lắng nghe Cadière” và Tiến sĩ Mai Khanh, “Gia đình Việt Nam theo L. Cadière”.

5- Ngôn ngữ học: Tiến sĩ Hoàng Dũng, “Đóng góp của L.Cadière vào phương ngữ học tiếng Việt” và Nhà nghiên cứu Bửu Ý, “Câu chuyện dịch thuật thông qua L. Cadière”.

6- Mỹ thuật : Phó giáo sư Họa sĩ Vĩnh Phối, “Mỹ thuật Huế dưới góc nhìn của L. Cadière” và Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông, “L.Cadière với tác phẩm L’Art à Hué”.

Nói chung, mỗi diễn giả đã trình bày về khả năng tinh tế của Cha Cadière trong nhận thức vấn đề, về phương pháp nghiên cứu của Cha (mà nhiều diễn giả nhìn nhận là nghiêm túc, khách quan, khoa học, tâm huyết và làm tới nơi tới chốn) và nhất là về tâm thức làm việc của Cha, nói gọn là với một tấm lòng. Chính nhờ tổng hợp ba yếu tố này (tài năng, phương pháp và một tấm lòng) mà những công trình của Cha Cadière đều là “những trang vàng” (nói theo Giáo sư Chu Hảo), có giá trị cho đến ngày nay, chẳng những có giá trị tham khảo, mà còn có giá trị hiện thực. Và một đánh giá khá tiêu biểu về Cha Cadière từ Nhà Nghiên cứu Bửu Ý: “Cadière xuất chiêu trông bề ngoài có vẻ hời hợt, mà nội lực thâm hậu khôn lường”.

Cũng có nhận định về một tài năng khác của Cha Cadière, đó là khi cùng lúc thực hiện “nhiệm vụ kép” (theo cách nói của linh mục J.B. Etcharren), vừa là linh mục thừa sai lo chuyện đạo, vừa là nhà nghiên cứu khoa học, Cha đều chu toàn. Từ chỗ hai lãnh vực này xem ra không mấy tương thích, Cha Cadière lại biến chúng thành những yếu tố hỗ tương. Và như vậy, trước Thư chung năm 1980 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhiều thập niên, Cha Cadière đã “sống phúc âm giữa lòng dân tộc, phục vụ hạnh phúc của đồng bào”.

Dĩ nhiên, trong số các công trình của Cadière, cũng có những chi tiết bất cập hay sai sót. Nhưng chỉ là số ít.

Về chất lượng của các bài tham luận, Đức Cha Võ Đức Minh đã nhận định rằng đây là những bài “có giá trị đến nức lòng”, hay nói như Giáo sư Chu Hảo, là những tham luận nghiêm túc, công phu, gây kinh ngạc. Những nhận định được cử tọa đồng tình, thể hiện qua các tràng pháo tay vang dậy. Những đánh giá này còn được thể hiện qua đề xuất của Giáo sư Chu Hảo, Giám đốc kiêm Tổng Biên tập Nhà xuất bản Tri Thức, đảm nhận in và xuất bản cuốn Kỷ yếu Hội thảo này.

Từ những đánh giá này, đã nổi lên trong Hội thảo một cảm nhận chung của nhiều người, đó là thái độ ứng xử của hậu thế đối với Cha Cadière. Bàng bạc một cảm giác áy náy. Và đã có những ý kiến điều chỉnh một tình trạng “bất công”. Nhẹ nhàng như Đức Cha Nguyễn Thái Hợp thì chỉ nêu “phải chăng đã đến lúc chúng ta nên có một nghĩa cử nào với Cha Cadière?” Hay như Nhà văn Nguyên Ngọc, là phải “lắng nghe Cadière”. Xác quyết hơn, là ý kiến của Nhà Nghiên cứu Nguyễn Hữu Châu Phan: “Đã đến lúc Huế phải tôn vinh Cadière”. Và một số đề xuất cụ thể hơn về các hình thức tôn vinh, như đặt tên L. Cadière cho một con đường, một ngôi trường, một viện nghiên cứu, hay một Quỹ Văn hóa Cadière. Cũng có những đề xuất đi xa hơn như đặt tượng Cadière tại Quảng Bình, Quảng Trị, hay đề nghị các nhà Việt Nam học nhận Cadière làm ông tổ của ngành (Nhà nghiên cứu Thân Trọng Ninh), hoặc đề nghị thành lập Nhà Lưu niệm Cadière và phim tài liệu về Cadière (Nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh). Còn Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đề nghị thành lập Trung tâm Di sản Cadière, dịch lại BAVH, tái lập Hội Đô Thành Hiếu cổ, thiết lập hồ sơ di sản Cadière, hướng tới nhìn nhận Di sản Cadière như Di sản quốc gia và có thể hướng tới Di sản văn hóa thế giới. Và một số đề nghị khác, như của Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Phong: in tổng tập Cadière và mở một chiến dịch “Những giọt đồng dành cho danh nhân”, dành cho Cha Cadière.

Cha J.B. Etcharren cho rằng cách tôn vinh hay nhất là “làm sống lại tinh thần của Cha trong thời đại chúng ta”. Đức Cha Võ Đức Minh nói rằng điều quan trọng là làm sao phát huy tinh thần Léopold Cadière, nhất là khuyến khích các thế hệ trẻ Công giáo nên đi sâu vào tư tưởng của Cha Cadière, vì ngài vốn có những tư tưởng độc đáo, đi trước thời đại (ví dụ như phát biểu của Đức Cha Simon Hòa Hiền tại Công đồng Vatican II, “nhìn thấy nơi Ba ngôi Thiên Chúa hình ảnh gia đình”, là từ tư tưởng của Cha Cadière).

Dầu sao, người dân Việt vốn có truyền thống “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và rằng “ý dân là ý trời”, nên những đề xuất tốt đẹp và chân thành như nêu trên, cũng nên được các bên hữu quan xem xét.

Cuộc hội thảo của chúng ta còn được thêm phần phong phú và sinh động nhờ các hoạt động bên lề, đó là một phòng triển lãm văn hóa, tuy còn khiêm tốn nhưng đáng trân trọng, buổi văn nghệ hào hứng và càng thêm ý nghĩa khi có một tiết mục gợi mở hướng về Đại lễ Ngàn Năm Thăng Long Hà Nội, buổi tối Chợ Quê vui nhộn với các gánh hàng rong, các gian hàng ẩm thực, các trò chơi dân gian.

Và dĩ nhiên, trong một cuộc Hội thảo quy mô như thế này, cũng đã không tránh khỏi vài bất ưng.

Trước hết, Ban Tổ chức đã hơi nhiệt tình khi đưa quá nhiều món ăn (đề tài). Có lẽ, tốt hơn, là bớt đề tài để tăng thêm tính chuyên sâu và nhất là, có thể thêm thời gian thảo luận và phát biểu cho cử tọa.

Kế đó là hệ thống âm thanh chưa được tốt, nhiều góc cạnh trong Hội trường nghe không rõ, nhất là khi các diễn giả phát biểu bằng tiếng Huế.

Và điều ước mong cuối cùng của nhiều người, là trong thời đại thông tin ngày nay, các tài liệu nên được phân phối sớm và đầy đủ.

Kính thưa quý Đức Cha và tất cả quý vị,

Nhìn chung, cuộc Hội thảo đã diễn ra sôi nổi, phong phú. Đa số cử tọa đã “bền đỗ đến cùng”, hiện diện từ đầu cho đến cuối. Cuộc hội thảo có thêm phần ý nghĩa khi có một nét nhỏ (màn vũ “Một Thoáng Thăng Long) hướng về Đại hội Ngàn Năm Thăng Long – Hà Nội. Có thể khẳng định rằng Hội thảo đã thành công tốt đẹp.

Nhưng đây chưa phải là hội thảo cuối cùng, mà còn phải tiếp tục những cuộc hội thảo khác giữa những người thành tâm thiện chí, thiết tha với với tương lai và sự hưng thịnh của Dân tộc. Nhất là khi đã có lời mời gợi mở từ Giáo sư Chu Hảo rằng Quỹ Văn hóa Phan Chu Trinh sẵn sàng cộng tác với Giáo Hội để mở nhiều hội thảo tương tự, trên cả khắp ba miền, với tinh thần “hưng dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.

Chúng ta cũng tin tưởng rằng sau Hội thảo này, quý Đức Cha trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam sẽ đẩy mạnh hơn nữa các loại hình hoạt động văn hóa, kể cả nghiên cứu văn hóa chuyên sâu như Cha Cadière, vì đây là lãnh vực mà Tin Mừng Cứu Độ có thể thâm nhập hòa bình và êm thắm nhất, như cuộc Hội thảo hôm nay là một chứng từ tiêu biểu, như Cha Léopold Cadière là một mẫu gương thuyết phục.

Có thể bản tổng kết còn thiếu sót, xin quý vị bổ sung.

Và xin chân thành cám ơn đã lắng nghe.

TM. Ban Thư ký

Vương Đình Chữ

CÁC BÀI THAM LUẬN

1. L. Cadière và hội nhập văn hóa: Một kinh nghiệm loan báo Tin Mừng.

(Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Vinh).

2. Từ L. Cadière, nghĩ về những đóng góp của các giáo sĩ thừa sai với nghiên cứu Việt Nam.

(Nhà sử học Đào Hùng, Hà Nội).

3. Huế dưới con mắt L. Cadière, L. Cadière dưới con mắt một người Huế.

(Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Châu Phan, Huế).

4. L. Cadière, hình ảnh một thừa sai và lời khuyên cho thế hệ thừa sai trẻ.

(Linh mục Jean Baptiste Etcharren, Pháp).

5. Thân thế và sự nghiệp L. Cadière

(Linh mục Gérard Moussay, Pháp).

6. Đóng góp của L. Cadière cho Tạp chí “Trường Viễn Đông Bác Cổ” và cho Tạp chí “Những người bạn cố đô Huế (Đô Thành Hiếu Cổ).

(Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, thành phố Hồ Chí Minh).

7. Lắng nghe Cadière

(Nhà văn Nguyên Ngọc)

8. Tâm thức tiếp cận của L. Cadière với văn hóa, tín ngưỡng và tôn giáo người Việt.

(Nhà nghiên cứu Đỗ Trinh Huệ, Huế).

9. Về công trình nghiên cứu Ngữ âm Bắc Trung bộ của L. Cadière.

(Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngữ học Hoàng Dũng, thành phố HCM)

10. L. Cadière với cổ vật Huế.

(Nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan).

11. Một cảm nghĩ về L. Cadière: câu chuyện dịch thuật.

(Nhà nghiên cứu Bửu Ý, Huế).

12. Gia đình Việt Nam theo L. Cadière.

(Tiến sĩ Mai Khanh, thành phố HCM).

13. Mỹ thuật ở Huế dưới góc nhìn của L. Cadière.

(Họa sĩ Vĩnh Phối, Huế).

14. L. Cadière với tác phẩm L’Art à Huế (Mỹ thuật ở Huế).

(Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông, Huế).

15. Minh triết dân gian Việt Nam theo L. Cadière.

(Giáo sư Trần Văn Toàn, Pháp).

Mới hơn Cũ hơn